Tiểu sử cụ Huỳnh Thúc
Kháng
Huỳnh Thúc
Kháng là chí sĩ, học giả, thuở nhỏ ông có tên là Hanh, tự Giới Sanh, hiệu
Mính Viên (còn có nhiều bút danh khác: Sử Bình Tử, Tha Sơn Thạch, Khỉ Ưu Sinh,
Xà Túc Tử, Thức Tự Dân, Ưu Thời Khách, Hải Âu, Ngu Sơn, Khách Quan). Ông quê ở
làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang thượng, nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước,
tỉnh Quảng Nam.
Huỳnh Thúc Kháng 8 tuổi đi học, 13 tuổi
đã văn hay chữ tốt, 16 tuổi đi thi Hương, nổi tiếng ở Kinh đô Huế, sánh cùng
Trần Quý Cáp, Phạm Liệu, được xếp vào hạng Tam hùng, năm 29 tuổi (1904) ông đỗ
Tiến sĩ, được nhân dân sở tại gọi là Ngũ hổ. Ông là một trong những nhà lãnh
đạo phong trào Duy Tân, bị thực dân Pháp đày ra Côn Lôn đến năm 46 tuổi (1921)
mới được phóng thích. Năm Bính Dần (1926), ông đắc cử Dân biểu rồi được
cử làm Viện trưởng Viện dân biểu Trung Kỳ. Trong 3 năm hoạt động ở Viện, ông
cương quyết tranh đấu trong nghị trường, rồi chống lại viên Khâm sứ Pháp
Jabouille. Ông từ chức và sáng lập tờ báo Tiếng Dân, làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút báo này tại Huế (1927-1943).
Chí sỹ Huỳnh Thúc Kháng (1875-1947)
Ông đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra tham gia nội các Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ sau cách mạng tháng
Tám 1945 thành công. Đến năm 1946, khi Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa sang Pháp đàm phán, Huỳnh Thúc Kháng được cử làm Quyền Chủ tịch nước. Thời
gian này cụ còn là chủ tịch Hội Liên hiệp Quốc dân. Cuối năm 1946, cụ là đặc
phái viên của Chính phủ vào cơ quan Uỷ ban Kháng chiến hành chính nam Trung Bộ
tại Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Cụ Huỳnh Thúc Kháng
lâm bịnh nặng và qua đời ngày 21/4/1947 tại Quảng Ngãi. Làm theo tâm nguyện của
cụ, nhân dân đã đưa cụ lên an táng trên đỉnh núi Thiên Ấn. Nơi đây là đệ nhất
thắng cảnh của Quảng Ngãi – “Thiên Ấn niên hà” (Ấn trời đóng xuống sông)
Trong khi tiến hành lễ
quốc tang cụ Huỳnh Thúc Kháng, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
Ban tổ chức lễ tang đã trang trọng uy nghiêm đọc bức thư của Chủ tịch Hồ Chí
Minh gửi vào: “Cụ Huỳnh là người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức
rất cao. Vì lòng yêu nước mà Cụ trước đây bị bọn thực dân làm tội, đày ra Côn
Đảo. Mười mấy năm trường gian nan cực khổ, nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước
thương nòi của Cụ chẳng những không sờn, mà lại thêm cương quyết. Cụ Huỳnh là
người giàu sang không làm siêu lòng, nghèo khó không làm nản chí, oai vũ không
làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm
làm giàu. Cả đời Cụ Huỳnh chỉ phấn đầu cho dân được tự do, nước được độc lập,
đến ngày nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập Chính phủ ta mời Cụ ra.
Tuy đã 71 tuổi, nhưng Cụ vẫn hăng hái nhận lời, Cụ nói: “Trong lúc phục hưng
dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng ra sức phụng
sự Tổ Quốc. Cụ Huỳnh tạ thế, nhưng cái chí vì nước, vì nhà của Cụ vẫn luôn sống
mạnh mẽ trong lòng hai mươi triệu đồng bào chúng ta”.
Với nhiều công lao, thành tích to lớn, ngày 27
tháng 12 năm 2012, Chủ tịch nước quyết định truy tặng Huân chương Sao Vàng cho
cụ Huỳnh Thúc Kháng.